GIA SỬ DÒNG HỌ NGUYỄN VĂN - GIAO THỦY
Thủy tổ dòng họ Nguyễn Văn - Giao Thủy
Trong tiến trình lịch sử, vùng đất này được hình thành trên con đường phát triển về phương Nam
của nhiều thế hệ người Việt. Trước khi trở thành một đơn vị hành chính của nước Đại Việt, vùng đất này đã có một quá trình phát triển lâu dài Các công trình nghiên cứu khảo cổ học tại Đồi Vàng (huyện Đại Lộc), Tabhing (huyện Nam Giang), Tiên Hà (huyện Tiên Phước)...đã chứng minh sự có mặt rất sớm của con người ở vùng đất này cách đây khoảng 6.000 năm. Đồng thời, ở Quãng Nam cũng tìm thấy dấu tích văn hoá thời kỳ kim khí ở thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, đó là nền văn hóa hậu Sa Huỳnh, sau đó được các bộ tộc Champa kế thừa và sáng tạo ra nền văn hóa hết sức độc đáo với những kinh đô, đền đài, thành quách uy nghi, tráng lệ như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Bàng An, Chiên Đàn ...
Năm 1306, vua Champa là Chế Mân cắt 2 châu Ô - Lý làm sính lễ cho vua Trần Anh Tông khi cưới công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu vương quốc Champa. Năm 1037 Châu Ô, Lý được đổi thành Châu Thuận, Châu Hoá, Châu Thuận bao gồm vùng đất từ huyện Triệu Phong, tỉnh Quãng Trị vào đến huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Châu Hóa là vùng đất phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế cho đến tận bờ bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quãng Nam hiện nay.
Từ 1402 những cuộc di dân đầu tiên được tổ chức qui mô, cẩn thận, nghiêm khắc và cương quyết dưới sự chỉ đạo của triều đình nhà Hồ
Năm 1602 trong cuộc kinh lý đến Hải Vân Quan, Nguyễn Hoàng đã nhận ra đây là yết hầu của miền Thuận Quảng, dưới thời Chúa Nguyễn, vùng Thuận Quảng nhiều năm được mùa, nhà nhà no ấm cảnh sắc thái bình nói lên được khã năng chinh phục của người dân Việt trên đường Nam tiến và điều đặc biệt hơn cả là phía sau hình ảnh hào hùng, tráng khái của vị Tổng trấn tướng quân họ Nguyễn còn có hình ảnh của hàng vạn, hàng triệu dân chúng, kế tiếp nhau hết lớp này đến lớp khác đuổi hùm voi, phá bờ rạch núi, nới sông kiến tạo làng mạc, khắc phục sức ươn ngạnh của đất đai, rừng rú để mở con đường sống . Trong số hàng vạn, hàng triệu người dân từ phía Bắc di cư vào đất Thuận Quãng có những bật tiền hiền, hậu hiền của các dòng tộc trong đó có tiền hiền dòng tộc Nguyễn Văn làng Giao Thủy ( Đại lộc - Quãng Nam)
Địa lý - tự nhiên- văn hoá- xã hội
Yếu tố sông rạch và nguồn nước cho việc tưới tiêu sinh hoạt đã trở thành yếu tố hàng đầu và tối thiếu để lập nghiệp, ở đâu có nguồn nước đầy đủ ở đó có nguồn đất tốt, làng Giao Thủy vùng đất ven sông Thu Bồn đã trở thành khu vực chiếm ngụ sớm. Căn cứ vào danh mục đơn vị hành chính trong Phủ Biên tạp lục, cuối thế kỷ XVIII, theo Dư địa chí Đại Lộc thì các thôn xã ..tập trung gần như đều khắp các vùng thuộc tả ngạn, hữu ngạn sông Thu Bồn, Vu Gia. Đây là vùng cư trú tập trung mà thoạt đầu là các cụm cư trú tập trung rời trên đất thổ cư, cách biệt nhau bởi các cụm đất điền canh tác. về sau với sự phát triển dân số, địa bàn cư trú lấn xuống đất điền - trước hết là ruộng treo, rồi đến ruộng thấp với yêu cầu đắp nền cao để chống lụt- khiến cho các cụm cư trú lại liền nhau thành một vùng cư trú tập trung
Làng Giao Thủy thuộc xã Đại Hòa - Huyện Đại Lộc là một vùng trung du dưới sự tác động của địa chấn, địa hình, khí hậu và đặt biệt là một vùng đất bốn bề sông nước, nên đất đai chủ yếu là đất phù sa, đất phù sa ở Giao Thủy chủ yếu được tạo thành trên lớp phù sa sông Thu Bồn và Vu Gia. Là một vùng đất thấp hơn so với một số vùng khác theo độ cao từ tây bắc thấp dần xuống đông nam nằm ở khu vực có độ dốc lớn, Sông suối nhiều nên vào mùa mưa nếu mưa dồn dập hoặc mưa lớn, nước lũ lên rất nhanh ở Giao Thủy trong một giờ có khi nước dâng lên gần 2 mét.
Vùng này mọc toàn cây Rì nên có tên là Gò Rì, sau đó ông bà ta bắt đầu khai phá, trồng Bói, Trồng sậy để giữ đất, mỗi lần mùa nước lụt về phù sa bồi đắp dần dần đất đai được nới rộng dần, theo lời của các bật tiền nhân kể lại thì " đi bộ từ đầu làng đến đuôi làng chưa tàn hết điếu thuốc" trải qua nhiều thế hệ địa bộ thêm ra như ngày hôm nay.
Nhờ kiên trì, cần cù lao động đất được phù sa bồi đắp đất được nới rộng thêm ra, các dòng nước thu hẹp lại liên kết với một số vùng , nên phía đông đã tiếp cận với Thượng Phước, phía Tây tiếp cận với Hoá Yên còn phía nam thì tiếp giáp với dòng sông Cái gọi là sông Thu Bồn, đất phía nam gọi là đất Trầm thủy ( Đất ở dưới nước ) Dòng chảy qua nhiều đời bồi đắp tạo nên một vùng đất có tên là Hà Nà gọi là Hạ Đồng Xứ
Mủi đất phía đông giáp với Thượng Phước có Miểu thờ Bà Ngũ hành .
Hướng Bắc giữa gò ông bà Lập là Nhà thờ tộc Nguyễn Văn, cạnh nhà thờ tộc là Cồn ông phó cán
Tại bờ thành cồn ông phó cán, ông bà có lập Miếu ông thổ, sau lưng miếu ông thổ là nhà thờ tộc Nguyên Tấn, cách nhà thờ tộc Nguyễn Tấn về hướng Tây chừng 30 m là nhà thờ tộc Nguyễn Hửu .
Đình Giao Thủy nằm ở đầu làng, năm 1979 Tỉnh QNĐN có quyết định thành lập công ty có tên là "Công ty ươm tơ Giao Thủy", bây giờ công ty đã dừng hoạt động, trước đây gần đình có tiệm thuốc bắc nhà rất kiên cố ( Nhà mái bằng ) của ông Chệch còn gọi là ông 16, chiến tranh năm 1947 Pháp tái chiếm lấy nhà ông 16 làm đồn Giao Thủy, gần khu vực này có một tiệm ươm khoảng chừng 100 chảo của một người Pháp có tên là " Dơlinhông " . Nơi này thời kỳ Mỹ có một cái cầu bắt qua Kiểm Lâm, nhưng lụt năm Thìn đã bị trôi mất còn lại một số trụ cầu trơ trọi
Càng về sau này phù sa ngày càng bồi đắp lập thành xóm ngoài, tính từ dốc Chờ (bà Chờ) tên một người mà ông bà ta cho ở để giữ vùng đất bồi này, gồm 3 gia đình : Bà Lung- Dậu ở Hiện nay là sân vận động của Thôn Giao Thủy kéo dài xuống đến dưới đùi Ông Lưu Pháp bây giờ.
Xóm trên từ sân vận động đến vườn Me liền kề với Hoá Đông (Vùng đất bồi này trước đây là sông nước) Do quá trình phù sa ngưng tụ của các dòng chảy nên đã tạo ra một số Bàu như:
+ Bàu Đình ( Gần Đình làng Giao Thủy )ước chừng dài 500m rộng 100 m sâu khoảng trên 5 m tính từ mặt nước lớn khoảng tháng 2 , 3 âm lịch
+ Bàu Bác Nhứt kề với bầu Đình Bàu này thì nhỏ ước chừng 50 mét vuông khi mùa nước lớn 2 bàu này nhập lại một
+ Bàu Chờ nằm trước xóm chờ nên còn gọi là bàu Chờ rộng độ chừng 180 mét vuông
+ Bàu cây thuốc, nằm gần bàu Chờ, cách nhau một dãi đất rộng chừng 10 m Diện tích bàu này khoảng chừng trên dưới 1000mét vuông, chuyện kể người dân trong làng trồng cây thuốc lá sau khi thu hoạch lấy hết thân cây bỏ xuống bàu ngâm cho tróc vỏ sau đó lấy lên đem phơi nắng dùng để đun nấu, nên mới có tên bàu Cây Thuốc
+ Bàu Chưng Chàn gối đầu từ bàu Cây Thuốc khoảng cách trên dưới 10 m rộng chừng 10 mét chiều dài của bàu kéo dài đến bến Mương ( Dùi xóm mới, nhà Bà Thú ) ở Bến Mương mỗi lần nước lụt về nước từ sông thu bồn đầu tiên chảy theo con lạch này vào các Bàu , dân trong làng chờ đến khi nước chảy vào là dùng một dụng cụ có tên là Rập để hứng cá. Khi nước ngang đầu gối một số loại cá ức nước theo luồng nước chảy chạy theo, trong đó có một loại cá rất ngon người ta gọi là cá Trôi mang đầy trứng, thịt rất ngon, có con lớn bắt được chừng 3 đến 4 kg
+ Bàu Nước Vàng ( Do bị phèn nên nước vàng ) diện tích chừng 500mét vuông nằm trước nhà ông Cửu Bảy hiện nay là nhà ông Mười Thạnh
Toàn bộ các bàu trên nằm giữa xóm mới và gò Đông Liên, liên kết từ Đông Sang Tây từ đầu làng xuống đến bến Mương giáp đất Hạ Nà, hình thành một vòng đai tựa sừng trâu hướng về phía Cù Bàn, án ngữ giữa các bàu với sông Thu Bồn do quá cao nên phù sa về không thể lấp được
Nói về phía bên kia gò Đông liên, phía nam Cù Bàn do dòng chảy bồi dắp hình thành 2 cái Búng, mỗi Búng dài độ 300m rông chừng 100 mét một cái nằm cạnh dãi đất Hà Nà xuôi về Thượng Phước. dài độ 200m rộng chừng 50 m bầu và Búng hàng năm lụt về cá theo dòng nước lớn lội về rồi ở lại sinh sản nên cá tại đây rất nhiều và sinh sản cũng nhanh đủ cung cấp cho cả làng, ngoài cá còn có tôm, tép, ốc ...
Trên vùng đất mới ( Đất phù sa) người dân lập vườn trồng các loại cây lâu niên như cây mít, Bòng, Ôỉ, Cam, Dừa... Sau khi hoà bình lập lại đất canh tác hàng năm được chia cho người dân trong làng mỗi theo hộ khẩu gia đình, có nhiều loại đất khác nhau từ đất tốt đến đất xấu chia làm 4 loại: Loại 1, 2, 3. Ngoài đât thổ cư dân trong làng thường trồng các loại cây như Bắp, Đậu các loại, mè, khoai lang để làm thực phẩm nhưng chính vẫn là cây bắp, gạo thì mua và trao đổi với những vùng lân cận , riêng cây công nghiệp có cây dâu để nuôi Tằm đây là một lợi thế rất lớn của người dân Giao Thủy
Cây dâu được trồng xen vào giữa những hàng dâu, tháng 3 thu hoạch bắp xong nhờ lượng mưa lớn của tiết Tiểu mảng làm cho cây dâu phát triển mạnh, người dân trong làng nuôi tằm, đây là nghề truyền thống có từ thời cha ông . Nghề nuôi tằm rất công phu, giống như chăm sóc trẻ con vậy, ông bà ta thường có câu " Làm ruộng ăn cơm nằm làm tằm ăn cơm đứng" là thế nhưng được một cái là rất kinh tế, nhiều gia đình trong làng có của ăn của để cũng nhờ vào nghề này
Thường thì đất Giao Thủy từ tháng 8 âm lịch mùa của bão lụt nên không sản xuất được, thời gian này người dân trong làng cứ mỗi độ con nước về ( lụt ) các bô lão, thanh niên trai tráng trong làng đi vớt củi lụt ( Trôi từ nguồn về ), đi bắt cá khi bắt đầu nước của dòng sông thu bồn chảy vào con lạch ( Gọi là bến mương) thì cá cũng theo nhau về, làng bây giờ giống như ngày hội, khi nước bắt đầu ngập những dãi đất mà người dân dùng để trồng dâu thì con dế bắt đầu nỗi lên " gọi là con dế cơm " bám vào những cây dâu, dân trong làng dùng ghe bơi ra những mảnh đất trồng dâu để bắt đêm về chế biến , đây là món ăn rất ngon
Từ hạ tuần tháng 11 Làng bắt đầu xuống đồng (Thông qua nghi lễ do một vị tiên chỉ người có chức sắc trong làng làm chủ lể cúng cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu
Các lễ truyền thống trong năm:
Mỗi năm vào khoảng tháng 2 dân làng làm lễ cầu an, cầu Thần Hoàng bổn xứ phù hộ độ trị cho dân trong làng cơm no áo ấm, bệnh tât tiêu trừ, mùa màng bội thu, tai qua nạn khỏi. Ngày 15/3 cầu Quốc thái dân an, lễ vọng sáng 3h
Tết nguyên đán :
+ Đêm giao thừa người đứng đầu đúng thời điểm giao thời năm củ và năm mới khởi cổ ( Báo hiệu đầu năm) sau khi đình khởi cổ các tộc mới tiếp theo hành lễ. Xong lễ tại Đình làng các chức sắc trong làng đến lễ tại Miếu Bà Ngũ hành và Miếu Ông Thổ, sau đó đi đến từng nhà thờ các tộc trong làng thứ tự theo lễ tộc lớn đến trước tộc nhỏ đến sau
Tín ngưỡng gia tộc
Tộc của ta đúng ngày 16/3 âm lịch hằng năm tổ chức Lễ Tế Xuân, trước đó vài ngày bà con ta lo tổ mộ, tu bổ sửa sang các phần mộ của Tiền Hiền, các tổ Phái, các chi nhánh cũng như các mộ vô danh trong tộc và cho từng gia đình có thân nhân qua đời, cùng với chúng ta các ttộc khác trong làng cùng tiến hành tảo mộ
- Tháng 11 Đông chí ( Không quy định) cũng là dịp tảo thanh phần mộ chuẩn bị cho tết Nguyên Đán về ăn chạp các gia đình tổ chức sau một ngày
Tộc Nguyễn Văn trưa 30/12 âm lịch rướt ông bà ở nhà thờ, sau khi rướt ông bà về cho đến mồng 3 tết trong tộc phân công người ở lại trông coi hương đèn, tập tục này được truyền từ đời này sang đời khác và lưu giữ đến ngày nay
Sự sinh trưởng dòng họ
Quê hương Giao Thủy nơi xa xưa Tổ tiên ta đã đổ bao mồ hôi công sức, và nước mắt qua nhiều thế hệ vẫn vững vàng trước những thách thức với mọi biến thiên của thời gian, một số bà con ta ở lại bám làng bám đất, một số vì hoàn cảnh phải xa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để mưu cầu cuộc sống, song với ý thức mảnh liệt về nguồn cội những ngày đại lễ con cháu các nơi xa tựu về . Nhà thờ tộc ngày càng được khang trang hơn, đã cung nghinh Tộc phả mà bao đời nay chưa có điều kiện để làm. Linh hồn gia tộc đã ngự nơi đây để chúng tri cho tinh thần gia tộc vững bền cho giềng mối không bao giờ mai một, tôn vinh tình thần đó con cháu tiếp tục phát huy tinh thần văn hoá truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây và cây có cội nước có nguồn .
Theo tương truyền rằng khi Ông mất, qua cung mệnh thầy đọc câu phú " HOA LẠC MÃN ĐÌNH HỒNG " ý nói sau này con cháu ông rải rác khắp nơi và rất nhiều con cháu thành đạt, thật vậy con cháu Tộc Nguyễn Văn làng Giao Thủy có mặt khắp nơi trong nước và ngoài nước đã làm sáng danh cho cho gia tộc và tổ tiên thông qua ý chí và năng lực cũng như trình độ học vấn của mình các thế hệ con cháu đã đổ đạt Tiến sỷ, Thạc sỹ, kỹ sư , bác sỹ, giảng viên đại học, sỷ quan quân đội góp phân xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh nói chung và tộc họ nói riêng ngày một hùng mạnh
Nhà thờ dòng tộc và phần mộ tiền hiền tại Giao Thủy là biểu trưng cho cội nguồn là ý chí trường tồn của gia tộc không thể đổi dời, gốc có vững thì cành lá mới sum xuê, cây cho hoa kết trái. Trái chín ngọt hương toả đi muôn nơi, tiếp nối truyền thống cha ông, gia tộc sinh sôi nảy nở và phát triển khôn cùng, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, tinh hoa nối kết tinh hoa giữ gìn gia phong cũng chính là giữ lại một phần quan trọng của văn hóa và lịch sử- nguồn cội của mỗi chúng ta. Những giá trị ấy xứng đáng được trả giá như thế để bảo tồn và truyền lại cho con cháu đời sau.